Sự kết hợp của osimertinib/savolitinib đã cho thấy sự cải thiện đáng kể về tỷ lệ đáp ứng khách quan (ORR) ở bệnh nhân NSCLC tiến triển có đột biến EGFR và MET bất thường de novo.
Sự kết hợp giữa osimertinib (thuốc Tagrisso) và savolitinib đã cho thấy sự cải thiện có ý nghĩa lâm sàng về tỷ lệ đáp ứng khách quan (ORR) so với đơn trị liệu osimertinib khi sử dụng làm liệu pháp hàng đầu cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ tiến triển (NSCLC) có đột biến EGFR và MET bất thường de novo, theo dữ liệu từ thử nghiệm pha 2 FLOWERS (NCT05163249) được trình bày tại Hội nghị Thế giới về Ung thư Phổi của IASLC năm 2024.
Tính đến ngày chốt dữ liệu 28 tháng 5, 2024, với thời gian theo dõi trung bình là 8,2 tháng, ORR là 90,5% (CI 95%, 69,6%-98,8%) trong nhóm sử dụng kết hợp (n = 21) so với 60,9% (CI 95%, 38,5%-80,3%) trong nhóm đơn trị liệu osimertinib (n = 23). Trong nhóm kết hợp, 19 bệnh nhân (90,5%) đạt đáp ứng một phần (PR), 1 bệnh nhân (4,8%) đạt bệnh ổn định (SD), và 1 bệnh nhân (4,8%) tiến triển bệnh (PD).
Trong nhóm đơn trị liệu, 14 bệnh nhân (60,9%) đạt PR, 6 bệnh nhân (26,1%) đạt SD, và 3 bệnh nhân (13,0%) có PD. Tỷ lệ kiểm soát bệnh (DCR) là 95,2% (CI 95%, 76,2%-99,9%) và 87,0% (CI 95%, 66,4%-97,2%) lần lượt trong các nhóm osimertinib/savolitinib và đơn trị liệu osimertinib.
“Bệnh nhân sử dụng osimertinib kết hợp savolitinib cho thấy đáp ứng sâu hơn và bền vững hơn trong suốt quá trình nghiên cứu,” theo bác sĩ Jin-Ji Yang, từ Viện Ung thư Phổi Guangdong tại Bệnh viện Nhân dân Tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, cho biết trong bài thuyết trình.
Các nghiên cứu tiền lâm sàng đã chỉ ra rằng sự tồn tại của đột biến MET khuếch đại hoặc quá biểu hiện cùng với đột biến EGFR làm giảm độ nhạy với các thuốc ức chế EGFR TKI, đây có thể là cơ chế chính dẫn đến kháng thuốc ban đầu khi sử dụng đơn trị liệu EGFR TKI ở giai đoạn đầu.
Thử nghiệm pha 2 FLOWERS là một nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên, đa trung tâm, mở nhãn với hai nhóm điều trị, được thực hiện tại Trung Quốc. Tổng cộng có 44 bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên với tỷ lệ 1:1 để nhận 80 mg osimertinib mỗi ngày một lần hoặc cùng liều osimertinib kết hợp 300 mg savolitinib hai lần mỗi ngày. Bệnh nhân được điều trị cho đến khi bệnh tiến triển, xuất hiện độc tính không chấp nhận được, hoặc các tiêu chí ngừng điều trị khác.
Đáng chú ý, những bệnh nhân trong nhóm điều trị bằng osimertinib đơn độc được phép chuyển sang nhóm osimertinib/savolitinib nếu họ bị tiến triển bệnh và được xác nhận có bệnh MET bất thường/dương tính sau liệu pháp hàng đầu. Bệnh MET bất thường/dương tính được xác định bằng phương pháp miễn dịch hóa mô (IHC) với mức biểu hiện MET 3+ ở 75% hoặc nhiều hơn số tế bào khối u, hoặc khuếch đại MET được xác định bằng phương pháp lai tại chỗ huỳnh quang (FISH), với số bản sao gen MET (GCN) từ 5 trở lên hoặc tỉ lệ MET/CEP7 từ 2 trở lên, hoặc bằng phương pháp giải trình tự gen thế hệ mới (NGS) với MET CN từ 5 trở lên.
Tiêu chí đủ điều kiện yêu cầu bệnh nhân có NSCLC tiến triển hoặc di căn được xác nhận bằng giải phẫu bệnh, chưa được điều trị trước đó cho bệnh tiến triển, có đột biến EGFR đã được ghi nhận, trạng thái hoạt động theo thang điểm ECOG từ 0 đến 1, bệnh MET bất thường/dương tính, và có chức năng cơ quan phù hợp.
Tiêu chí chính là ORR được xác nhận và đánh giá bởi các nhà nghiên cứu theo RECIST v1.1; các tiêu chí phụ bao gồm DCR, thời gian đáp ứng (DOR), thời gian sống không bệnh tiến triển (PFS), tổng thời gian sống (OS), tỉ lệ sống 12 tháng, và an toàn cũng như khả năng dung nạp. Các tiêu chí khám phá bao gồm ORR của bệnh nhân chuyển từ nhóm osimertinib đơn trị liệu sang nhóm osimertinib/savolitinib sau khi tiến triển bệnh; cơ chế kháng thuốc; và mối tương quan giữa sự biến đổi gen động và/hoặc sự biến mất của DNA khối u lưu hành (ctDNA) với đáp ứng điều trị.
Kết quả bổ sung cho thấy bệnh nhân được điều trị bằng osimertinib/savolitinib có đáp ứng sâu hơn và bền vững hơn trong suốt quá trình theo dõi. Cụ thể, mức giảm khối u tốt nhất trung bình là –47,7% (phạm vi, –65,9% đến –38,7%) so với –42,2% (phạm vi, –58,0% đến –27,9%) trong các nhóm osimertinib/savolitinib và osimertinib đơn trị liệu, tương ứng. Thời gian theo dõi trung bình lần lượt là 8,5 tháng (phạm vi, 5,5-11,4) và 7,8 tháng (phạm vi, 6,0-9,6); thời gian DOR trung bình là 18,6 tháng (CI 95%, chưa đạt [NR]-không tính được [NE]) và 8,4 tháng (CI 95%, 6,6-NE), tương ứng.
Dữ liệu sơ bộ về PFS cho thấy xu hướng có lợi cho nhóm osimertinib/savolitinib so với nhóm osimertinib đơn trị liệu. PFS trung bình là 53,4 tháng (CI 95%, 10,2-NE) so với 9,5 tháng (CI 95%, 7,4-NE) trong các nhóm tương ứng (HR, 0,80; CI 95%, 0,19-1,51).
Cả hai phương pháp điều trị đều được dung nạp và quản lý, với các tác dụng phụ liên quan đến điều trị (TRAEs) cấp 3 trở lên xảy ra ở 57,1% và 8,7% bệnh nhân nhận osimertinib/savolitinib và osimertinib đơn trị liệu, tương ứng. Các tác dụng phụ phát sinh trong quá trình điều trị (TEAEs) ở bất kỳ cấp độ nào xảy ra ở tất cả bệnh nhân trong cả hai nhóm; tuy nhiên, 15 bệnh nhân (71,4%) và 6 bệnh nhân (26,1%) đã trải qua TEAEs cấp 3 trở lên trong từng nhóm tương ứng.
Đáng chú ý, TEAEs dẫn đến giảm liều chỉ xảy ra ở 5 bệnh nhân (23,8%) trong nhóm kết hợp; 5 bệnh nhân (23,8%) đã trải qua TEAEs dẫn đến ngừng điều trị vĩnh viễn trong nhóm kết hợp. Không có TEAEs dẫn đến tử vong ở bất kỳ nhóm nào.
Các TRAEs phổ biến nhất bao gồm phát ban (52,4%), giảm tiểu cầu (38,1%), phù ngoại biên (33,3%) và tăng alanine aminotransferase (23,8%) trong nhóm kết hợp so với tiêu chảy (56,5%), phát ban (52,2%) và ngứa (43,5%) trong nhóm đơn trị liệu osimertinib.
“Thử nghiệm FLOWERS/CTONG 2008 là nghiên cứu pha 2 đầu tiên, ngẫu nhiên, có đối chứng để báo cáo dữ liệu về hiệu quả và an toàn của osimertinib với hoặc không có savolitinib như liệu pháp hàng đầu ở bệnh nhân NSCLC tiến triển có đột biến EGFR và MET bất thường de novo. Sự kết hợp giữa osimertinib và savolitinib đã cho thấy những cải thiện có ý nghĩa lâm sàng,” Yang kết luận.
Tác giả Ashley Chan
Đội ngũ biên tập viên nhà thuốc An Tâm
Tài liệu tham khảo
Yang JJ, Li A, Feng WN, et al. Osimertinib with or without savolitinib as 1L in de novo MET aberrant, EGFRm advanced NSCLC (CTONG 2008, FLOWERS): a phase II trial. Presented at: 2024 IASLC World Conference on Lung Cancer; September 7-10, 2024; San Diego, California. Abstract PL04.10.